some quotes....

I just want to tell you, I'm the one who was supposed to take care of everything. I'm the one who was supposed to make everything okay for everybody. It just didn't work out like that. And I left. I left you... And now, I'm an old broken down piece of meat... and I'm alone. And I deserve to be all alone. I just don't want you to hate me.

-Randy 'The Ram' Robinson, The Wrestler

mardi 5 janvier 2016

The Big Short (2015)









Cho tới nay, hai sự kiện được coi là quan trọng nhất đối với xã hội nước Mỹ trong thế kỷ 21 là Vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 và Cuộc khủng hoảng tài chính giai đoạn 2007-2008. Nếu như Vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 và hệ lụy trực tiếp của nó là Cuộc chiến chống khủng bố tại Afghanistan và Iraq đã trở thành đề tài quen thuộc của điện ảnh Hollywood những năm gần đây thì nguyên nhân và diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính, cũng như những hậu quả của nó với đời sống kinh tế và xã hội Hoa Kỳ lại ít được giới làm phim Mỹ quan tâm đề cập. Ngoại trừ dòng phim tài liệu với các tác phẩm khai thác trực tiếp đề tài này như Capitalism: A Love Story (2009) của Michael Moore, Inside Job (2010) của Charles H. Ferguson, thì cho tới gần đây bộ phim điện ảnh gần như là duy nhất nói về những sự kiện giai đoạn 2007-2008 là Margin Call (2011) của đạo diễn J.C. Chandor. Có lẽ những số liệu và thuật ngữ tài chính khô khan, rắc rối, cùng hậu quả vô hình khó cảm nhận của cuộc khủng hoảng đã làm khó các nhà làm phim trong việc tạo ra các tác phẩm vừa mô tả được thực tế lại vừa lôi kéo được khán giả. Margin Call chính là bằng chứng cụ thể nhất cho những khó khăn này, khi mà dàn diễn viên nổi danh với những cái tên được yêu thích như Kevin Spacey, Paul Bettany, hay Stanley Tucci, cộng với một kịch bản rất chắc tay và tài năng không thể phủ nhận của đạo diễn Chandor vẫn không giúp bộ phim thực sự ăn khách hoặc tạo được tiếng vang về mặt nghệ thuật nếu so với những tác phẩm cùng năm có đề tài “mềm” hơn như Hugo của Martin Scorsese hay The Artist của Michel Hazanavicius. Nhưng với The Big Short của đạo diễn Adam McKay – một tác phẩm chuyển thể từ cuốn sách cùng tên của nhà báo tài chính Michael Lewis, có lẽ cuối cùng Hollywood đã tìm được một công thức thành công cho đề tài khó nhằn này.

Bối cảnh của The Big Short là nước Mỹ những năm đầu thiên niên kỷ mới khi nền kinh tế ổn định cùng chính sách nới lỏng tiền tệ đã giúp giới tín dụng phất lên nhanh chóng, đặc biệt là thông qua việc kinh doanh, môi giới địa ốc. Năm 2005, trong bối cảnh thị trường tài chính và bất động sản phủ đầy màu hồng ấy, Michael Burry (Christian Bale) – một bác sĩ chuyển nghề quản lý quỹ đầu tư lại làm tất cả khách hàng của anh ta sửng sốt khi đưa ra tiên đoán rằng bong bóng địa ốc sẽ vỡ tan chỉ trong vòng hai năm, bởi vậy quỹ đầu tư Scion của anh cần đi ngược lại chiều hướng của thị trường để đặt cược vào các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng CDS (“Credit Default Swap”). Bằng một việc đơn giản nhưng không ai để mắt tới đó là đọc kỹ các hợp đồng mua bán địa ốc và tìm ra vô số rủi ro tài chính trong các hợp đồng này, Burry tin chắc rằng việc ký thỏa thuận CDS với các ngân hàng lớn là mối hời không thể bỏ qua khi các ngân hàng này sẽ phải trả số tiền rất lớn cho quỹ đầu tư của anh trong trường hợp thị trường địa ốc đổ vỡ. Bởi vậy, bất chấp sự phản đối kịch liệt của khách hàng, Burry tung hết tiền của quỹ đầu tư vào các hợp đồng CDS với tất cả những tên tuổi lớn nhất của thị trường tài chính Phố Wall trong sự ngạc nhiên và chào đón của các ông chủ ngân hàng tham lam vốn coi thị trường bất động sản là nền tảng không thể tan vỡ của định chế tài chính Hoa Kỳ. Thoáng nghe được câu chuyện đầu tư “điên rồ” của Burry, Jared Vennett (Ryan Gosling) – một chuyên viên tài chính của ngân hàng Deutsche Bank nhanh chóng nắm bắt được ý đồ của Burry và lập tức đi tìm nhà đầu tư để đổ vốn vào thị trường CDS. Người duy nhất chịu tin và hợp tác với Vennett là Mark Baum (Steve Carell), một chuyên gia giao dịch tài năng nhưng cũng mang nặng trong lòng nỗi tức giận với sự tham lam của giới tài chính Phố Wall. Cũng bắt nguồn từ ý tưởng của Vennett, hai giao dịch viên trẻ tuổi và vô danh Charlie Geller (John Magaro) và Jamie Shipley (Finn Wittrock) cũng bắt đầu tìm cách kiếm lời từ thị trường CDS đầy rủi ro với sự hỗ trợ của chuyên gia tài chính về hưu Ben Rickert (Brad Pitt). Lịch sử cuối cùng đã chứng minh rằng những người thuộc phe thiểu số như Burry, như Vennett, như Baum, đã đúng với những tiên đoán xuất thần của họ về thị trường, nhưng để đi tới thành công, họ đã phải trải qua rất nhiều áp lực từ bạn bè, đồng nghiệp, và cả diễn biến kì lạ của thị trường – những diễn biến mà đến chính những người đi ngược dòng như họ cũng không thể ngờ tới. 

Gây dựng tên tuổi với các bộ phim hài thành công như loạt phim Anchorman, Adam McKay có lẽ là lựa chọn bất ngờ của Brad Pitt và hãng phim hãng phim Plan B Entertainment của anh – nhà sản xuất bộ phim này, cho đề tài tưởng chừng rất khô khan về tài chính và khủng hoảng kinh tế. Nhưng thực tế đã chứng minh là dưới bàn tay biên kịch và đạo diễn của McKay, chất hài châm biếm đã lại giúp The Big Short trở nên gần gũi, dễ hiểu, và lôi cuốn hơn rất nhiều với số đông khán giả vốn không hiểu, và cũng không quan tâm tới những đề tài xa lạ với họ như thị trường tài chính, bong bóng nhà đất. Để giải thích những thuật ngữ dài dòng và rắc rối của giới tài chính, Adam McKay đã cực kì sáng tạo khi viện tới những cái tên nổi tiếng nhưng hoàn toàn không phải chuyên gia tài chính như nữ diễn viên Margot Robbie, chuyên gia ẩm thực Anthony Bourdain, hay ca sĩ Selena Gomez giải thích trực tiếp cho khán giả thông quan những phân cảnh dạng phim tài liệu và những ví dụ đời thường rất dễ nắm bắt. Bên cạnh đó, chất hài trong phim cũng được gia giảm hết sức hợp lý theo nhịp phim với phần đầu đậm đặc chất hài châm biếm theo đúng phong cách thường thấy của McKay để giúp khán giả làm quen với bối cảnh của nền tài chính Hoa Kỳ trước khủng hoảng, cho tới phần cuối phim trầm lắng và tập trung vào những diễn biến và hậu quả của cuộc khủng hoảng với từng cá nhân và với cả xã hội Mỹ. Sự điều tiết tài tình này của Adam McKay đã khiến khán giả bắt được ngay nhịp của bộ phim và cuốn vào những chi tiết, nhân vật rất nhiều màu sắc của đời sống kinh tế nước Mỹ. Không chỉ giúp bộ phim bớt phần nặng nề, nét châm biếm chua cay của The Big Short còn góp phần làm nổi bật hơn sự tham lam đến mức mù quáng, coi thường luật lệ, coi thường số phận của người dân bình thường của giới tài chính Phố Wall. Từ những ngân hàng khổng lồ cho tới các quỹ đầu tư nhỏ lẻ, từ những ông chủ lớn nắm trong tay hàng trăm triệu, thậm chí là hàng tỷ đô la cho tới những chuyên viên giao dịch địa ốc ở mức thấp nhất, tất cả đều bị màu xanh của đồng đô la làm mờ mắt tới mức ngay cả khi số liệu đã chứng minh hiểm họa cận kề của cơn sốt bất động sản, vẫn không một ai tin vào những dự đoán rất có cơ sở của Burry, của Baum để rồi khi khủng hoảng xảy ra lại giẫm đạp lên nhau để tranh phần miếng bánh CDS. Sự phức tạp của thị trường tài chính với những cá nhân tham lam nhưng cũng hết sức mưu mô, tính toán này đã được The Big Short khắc họa hết sức thành công với truyện phim chắc chắn, hợp lý, tạo cho người xem cảm giác liền mạch bất chấp việc phim được dựng đa phần với các cảnh ngắn với phần thoại gọn gàng và nhịp độ dồn dập từ đầu tới cuối. Việc kịch bản và phần dựng phim được đề cử tại rất nhiều giải thưởng điện ảnh cuối năm của Hollywood chính là minh chứng rõ ràng nhất cho thành công của The Big Short.

Một tác phẩm với cốt truyện tương đối phức tạp và nhiều tuyến nhân vật xen kẽ như The Big Short chỉ có thể thành công với một dàn diễn viên nhập vai và diễn ăn ý. Và Adam McKay đã làm được điều đó với một dàn diễn viên tổng hòa của một loạt các ngôi sao hạng A của Hollywood như Christian Bale, Steve Carell, Ryan Gosling, Brad Pitt hay Marisa Tomei (vai Cynthia Baum, vợ của Mark Baum) với những gương mặt trẻ đầy triển vọng như John Magaro hay Finn Wittrock. Nổi bật nhất trong số này có lẽ là Steve Carell trong vai Mark Baum – giọng nói của lương tri và lý trí giữa Phố Wall điên loạn. Luôn muốn tìm hiểu bản chất của mọi sự việc, Baum nhanh chóng nắm bắt được dự báo của Burry và Vennett về sự đổ vỡ của thị trường địa ốc, nhưng rồi cũng chính ông là người đã nhận ra rằng những đổ vỡ mang tính hiện tượng ấy không thể giúp hàn gắn những khuyết điểm cố hữu của định chế tài chính vốn vận hành bởi mục tiêu duy nhất – tiền, thật nhiều tiền. Với thành công của vai diễn trong bộ phim này, hay trước đó là vai John Eleuthère du Pont trong Foxcatcher (2014), rõ ràng Steve Carell đã chứng tỏ rằng mình không chỉ là một ngôi sao phim hài, mà còn là một diễn viên thực lực hàng đầu của Hollywood. Đối nghịch với sự thâm trầm của Carell là sự lập dị của Bale trong vai bác sĩ Burry – kẻ tiên tri, và sự ngạo đời của Ryan Gosling trong vai Vennett – kẻ cơ hội. Mỗi người mỗi vẻ, bộ ba Carell-Bale-Gosling đã tạo nên một bức tranh đa diện, nhiều tính cách, màu sắc về Phố Wall – nơi nắm giữ vận mệnh tài chính của cả nước Mỹ. Không chịu thua kém, dàn diễn viên phụ của phim cũng tỏ ra hết sức ấn tượng với những điểm sáng như Jeremy Strong trong vai Vinny Daniel – phụ tá của Baum, hay diễn viên gạo gội Melissa Leo trong vai diễn nhỏ nhưng hết sức ấn tượng Georgia Hale – đại diện hãng xếp hạng tín dụng Standard & Poor's.

Thương trường là chiến trường. Đây là câu ví von thường được mọi người dùng khi nhắc tới nghề kinh doanh hay giới doanh nhân. Nếu sử dụng cách ví von này thì Phố Wall thực sự là một bãi chiến trường khổng lồ, nơi diễn ra cuộc chiến không ngừng nghỉ giữa những trí tuệ thượng hạng nhưng lại dễ dàng trở nên lú lẫn vì đồng tiền. Đáng sợ hơn thế, thương vong của cuộc chiến này lại là những người ngoài cuộc – những người dân thường chỉ mong có được một mái nhà yên ổn hay một khoản thu nhập ổn định đủ trang trải cuộc sống. Nhưng một khi lòng tham vẫn còn thống trị Phố Wall, khi đồng tiền vẫn còn là mục đích sống duy nhất của giới kinh doanh tài chính, thì những cuộc khủng hoảng như những năm 2007-2008 sẽ vẫn còn diễn ra, và những người hứng chịu tổn thất vẫn sẽ là những người dân bình thường. Có lẽ đó chính là thông điệp, là lời cảnh báo không bao giờ cũ gửi đến khán giả từ The Big Short, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất năm 2015 của điện ảnh Hollywood.


=====
Bài đã được biên tập trên Zing.

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire